12.10.2022

Ennio Morricone: một nhà soạn nhạc đa năng với âm thanh riêng biệt

 Emilio Audissino

Thành viên danh dự về nghiên cứu điện ảnh, Đại học Southampton


Thật khó khăn để tóm tắt trong một vài từ tất cả những đổi mới tài tình và vô số thành tựu trong sự nghiệp nhiều thập kỷ của một người khổng lồ âm nhạc như Ennio Morricone. Nhạc trưởng đã rời khỏi thế giới này vào ngày 6 tháng 7 năm 2020 nhưng tác phẩm của ông chắc chắn sẽ làm lay động nhiều thế hệ người yêu âm nhạc và điện ảnh trong nhiều năm tới. Nếu có ba nguyên tắc chỉ đạo trong tác phẩm của anh ấy thì đó sẽ là tính linh hoạt, chủ nghĩa thử nghiệm và cá tính âm nhạc riêng biệt.


Morricone đã sản xuất hơn 500 tác phẩm cho các bộ phim trong suốt sự nghiệp của mình - một loạt các thể loại và phong cách âm nhạc đa dạng nhưng mỗi tác phẩm đều mang đậm dấu ấn riêng của Morricone. Mặc dù ông được biết đến nhiều nhất nhờ sáng tác phim, nhưng danh mục của ông bao gồm các tác phẩm tiên phong và mang tính thử nghiệm cao và thậm chí cả các bản hit nhạc pop của Ý.


Morricone lần đầu tiên được đào tạo để trở thành một nghệ sĩ thổi kèn tại nhạc viện Accademia di Santa Cecilia danh tiếng ở quê nhà Rome. Ông cũng tốt nghiệp năm 1954 với tư cách là nhà soạn nhạc hợp xướng và dàn nhạc. Sau khi tốt nghiệp, kế hoạch tập trung vào âm nhạc hòa nhạc “nghiêm túc” đã bị trật bánh bởi nhu cầu kiếm sống ổn định. Điều này chứng kiến ông bước vào thế giới âm nhạc đại chúng, nơi anh ấy sắp xếp cho đài phát thanh và ngành công nghiệp thu âm đang nở rộ. Một trong những bản hit lớn nhất của ông là Se Telefonando (1966) năm 1966, được ông viết cho ca sĩ người Ý Mina.


Thay đổi lịch sử nhạc phim


Song song với sự nghiệp điện ảnh và công nghiệp thu âm bận rộn của mình, Morricone vẫn cam kết tạo ra âm nhạc hòa nhạc “nghiêm túc”. Trong suốt cuộc đời của mình, ông đã sáng tác hơn 100 tác phẩm hòa nhạc, bao gồm các tác phẩm dành cho dàn nhạc, hợp xướng và thính phòng. Ông cũng đồng sáng lập Gruppo di Improvvisazione Nuova Consonanza, một tập thể âm nhạc tiên phong với mục đích thử nghiệm tính ngẫu hứng trong âm nhạc nghệ thuật.


Cam kết thử nghiệm và mạo hiểm này đã được áp dụng cho các điểm phim của ông, đáng chú ý nhất là đối với "Spaghetti Westerns" của Sergio Leone. Đây là một loạt phim kinh phí thấp do người Ý sản xuất và đạo diễn, khám phá khái niệm về miền Tây nước Mỹ qua lăng kính của sự gan góc, hoài nghi và hài hước đen. Morricone xa lánh những mô hình nhạc phim được mong đợi ở Hollywood vào thời điểm đó. Đây là những bản ballad đồng quê, chẳng hạn như những bản ballad của nhà soạn nhạc Dimitri Tiomkin trong High Noon (Fred Zinneman, 1952) hoặc âm thanh của dàn nhạc đầy đủ Americana theo phong cách của Aaron Copland đã nghe trong The Big Country (1958, nhạc của Jerome Moross) và The Magnificent Seven (1960, nhạc của Elmer Bernstein).


Trong A Fistful of Dollars (1964) và các phim tiếp theo, Morricone đã chọn sự kết hợp chưa từng có giữa các câu thoại mang âm hưởng cổ xưa trong giai điệu, gợi nhớ đến âm nhạc phương thức thời trung cổ. Ông đã kết hợp âm thanh này với những nét nhạc pop đương đại (guitar điện Fender), dàn hợp xướng không lời, các nhạc cụ khác thường (đàn hạc của người Do Thái, đàn ocarina, kèn mariachi…) và âm thanh xung quanh (tiếng roi quất, tiếng huýt sáo, tiếng súng, tiếng hú của chó sói). Ông cũng truyền điểm bằng sự hài hước đặc trưng của mình. Điều này có thể được nghe thấy trong bộ phim hài phương Tây Il Mio Nome è Nessuno (My Name is Nobody, Tonino Valerii, 1973), trong đó một chiếc kèn đồ chơi phát ra một số đoạn của Wagner's Ride of the Valkyries.


Một auteur


Những năm 1960 là thập kỷ mà nhạc phim loại bỏ âm thanh giao hưởng đầy đủ lãng mạn muộn vốn là đặc trưng của Hollywood và các ngành công nghiệp điện ảnh chính thống khác. Morricone đóng vai trò quan trọng trong việc làm trẻ hóa nghệ thuật chấm điểm phim bằng cách tiếp cận thử nghiệm và ngược lại. Nói về phong cách sáng tác của mình trong một cuộc phỏng vấn với New York Times, Morricone nói:


Tôi đã nghiên cứu các phương thức biểu đạt của toàn bộ lịch sử sáng tác âm nhạc. […] Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại, và trong âm nhạc đương đại, thực tế trung tâm là sự lây nhiễm, không phải sự lây nhiễm bệnh tật mà là sự lây nhiễm phong cách âm nhạc. Nếu bạn tìm thấy điều này trong tôi, điều đó là tốt.

Bất kể thể loại hay thử nghiệm nào đang diễn ra – và những giới hạn do bộ phim quy định – âm thanh của ông luôn khác biệt. Theo cách gọi của ông, chính nhờ sự nhiễm này mà ông đã có thể thoát khỏi những giới hạn do bộ phim áp đặt và phát triển âm thanh của mình.


Phong cách cá nhân dễ nhận biết của Morricone cũng là sản phẩm của sự chính trực trong nghệ thuật và thái độ thẳng thắn không khoan nhượng, điều đáng buồn là rất hiếm trong âm nhạc thương mại. Ông khăng khăng viết mọi khía cạnh của âm nhạc mà không cần dùng đến người sắp xếp hoặc phần mềm máy tính.

Một trong những bản nhạc hay nhất của ông - theo báo cáo, bản nhạc yêu thích của cá nhân ông - là cho The Mission (1986). Ông đã tạo ra một kiệt tác trong đó ba yếu tố chính của câu chuyện đều có tính chất âm nhạc. Đầu tiên là của Nhà thờ Công giáo La Mã áp bức được đại diện bởi tác phẩm Conspectus Tuus. Motet phức tạp (một sáng tác âm nhạc chủ yếu là thanh nhạc) gợi nhớ đến nhà soạn nhạc người Ý thời Phục hưng Giovanni Pierluigi da Palestrina. Thứ hai là của nhà thờ nhân đạo của Cha Gabriel, được đưa vào cuộc sống trong giai điệu tâm linh của Gabriel's Oboe. Người thứ ba là bộ lạc Guarani, những người được thể hiện bằng những chiếc tẩu pan ba lá trong bản hợp xướng Edenic Vita Nostra.

Morricone đan xen cả ba bằng sự nhạy cảm kịch tính chân thành và khả năng viết đối âm ấn tượng, điều quá hiếm trong nhạc phim. Điểm của The Mission không chỉ là “nhạc phim” tuyệt vời; đó là âm nhạc tuyệt vời. Nó thể hiện tính linh hoạt, chủ nghĩa thử nghiệm và tính toàn vẹn nghệ thuật của Morricone ở dạng tổng hợp, trưởng thành và cao nhất.


No comments:

Post a Comment

Paul Mauriat và Raymond Lefevre: Liner Notes

 Bạn, Google giúp ta rất nhiều: Cho ta Google Drive để có thể đem hình đã scan sẵn, rồi dùng kỹ thuật OCR chuyển thành text! Cho ta Google T...